0294.3 863 708 | ctk_travinh@gso.gov.vn

Thông cáo báo chí Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh 6 tháng đầu năm 2024

28/06/2024 09:46

THÔNG CÁO BÁO CHÍ

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Trà Vinh 6 tháng đầu năm 2024

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; tình trạng bất ổn an ninh, chính trị leo thang tại một số quốc gia, khu vực tiềm ẩn rủi ro tới sự ổn định và phát triển kinh tế toàn cầu; kinh tế thế giới bước đầu phục hồi nhưng còn chậm; thiên tai, biến đổi khí hậu tác động tới kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. 

Trong nước, Bộ, ngành và địa phương nghiêm túc, quyết liệt thực hiện các giải pháp đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP về phát triển kinh tế - xã hội. Tình hình kinh tế -xã hội của nước ta duy trì xu hướng tích cực, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát, các cân đối lớn được đảm bảo. Tuy nhiên sức ép lạm phát còn lớn; sản xuất kinh doanh dự báo còn khó khăn; nhu cầu các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, truyền thống của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều.

Trước tình hình trên, UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành, địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện nhanh, hiệu quả, thiết thực và toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp theo Quyết định số 72/QĐ-UBND ngày 19/01/2024 của UBND tỉnh ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2024. Kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2024 trên các lĩnh vực như sau:

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2024 ước tính tăng 10,27% so với cùng kỳ năm trước, tăng đều cả 3 khu vực. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,51%, đóng góp 0,94 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 22,15%, đóng góp 7,54 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,25%, đóng góp 1,75 điểm phần trăm.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất và sản lượng lúa Đông Xuân tăng khá cao do thời tiết thuận lợi, giá lúa tăng cao nhiều hộ nông dân tích cực chăm sóc, đàn heo phát triển tương đối ổn định ở những hộ có năng lực chủ động con giống và chăn nuôi quy mô lớn. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 tăng 4,94%, đóng góp 0,91 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 0,62%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp sản xuất điện tiếp tục đà tăng trưởng, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục được duy trì phát triển ổn định. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 tăng 24,93% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 7,3 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất điện là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 30,85%, đóng góp 6,86 điểm phần trăm; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,18%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 4,97%, đóng góp 0,24 điểm phần trăm, ngành xây dựng của tỉnh tiếp tục tăng trưởng với một số công trình được chuyển tiếp chuyển tiếp từ năm 2023 và một số đơn vị hỗ trợ xây nhà cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn về nhà ở của tỉnh như: Bộ Công an hỗ trợ 1.290 căn nhà; Công ty xổ số Trà Vinh hỗ trợ 300 căn; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hỗ trợ 1.999 căn,…

Trong khu vực dịch vụ, các hoạt động thương mại và vận tải diễn ra sôi động. Đóng góp của một số ngành dịch vụ vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 như sau: ngành bán buôn và bán lẻ tăng 9,71%, đóng góp 0,82 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 19,42% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,43 điểm phần trăm;... Tuy nhiên, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 5,46%, làm giảm 0,19 điểm phần trăm do hiện nay hiện nay tỉnh đang tăng cường kiểm tra nồng độ cồn của người tham giao thông nên người dân đã hạn chế tổ chức ăn uống ngoài gia đình.

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu 2024, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 23,51%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 40,95%; khu vực dịch vụ chiếm 30,16%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,38 (Cơ cấu tương ứng của 6 tháng đầu năm 2023 là 25,07%; 37,52%; 31,51%; 5,9%).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sáu tháng đầu năm 2024, tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa tỉnh có một số thuận lợi như nguồn nước ngọt cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất, dịch bệnh trên cây trồng, thủy sản và một số bệnh trong chăn nuôi như: cúm gia cầm, LMLM gia súc, viên da nổi cục trên trâu bò được kiểm soát; sản suất lúa Đông Xuân trúng mùa, được giá; giá dừa khô, cua biển, heo hơi giữ ở mức cao; diện tích nuôi tôm thâm canh mật độ cao phát triển mạnh; các chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật tiếp tục được quan tâm đầu tư. Tuy nhiên, bệnh dịch tả heo Châu Phi xuất hiện cục bộ ở một số địa phương nhưng nhanh chóng được khống chế, không lây lan; nắng nóng gay gắt nên nông dân chậm xuống giống lúa vụ Hè Thu (để hạn chế thiệt hại); giá tôm nước lợ có tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp, mặt khác có thời điểm xuất hiện bệnh tôm chết sớm nên nông dân chậm thả nuôi (diện tích nuôi thủy sản thấp hơn cùng kỳ). Giá cam sành, cá lóc, bò hơi, gia cầm ở mức thấp (giá cá lóc thấp hơn giá thành từ 5.000 - 7.000 đồng/kg; cam sành thấp hơn giá thành từ 1.000 - 3.000 đồng/kg) ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của người dân.

- Lúa Mùa năm 2024: Kết thúc lúa vụ Mùa năm 2024 nông dân trong tỉnh gieo trồng đạt 1.007 ha, so cùng kỳ giảm 11,82% hay giảm 135 ha do một số địa phương chuyển một phần diện tích gieo trồng lúa Mùa sang gieo sạ lúa Thu Đông mang lại hiệu quả cao hơn. Năng suất đạt 47,05 tạ/ha, so cùng kỳ tăng 6,42% hay tăng 2,84 tạ/ha. Sản lượng đạt 4.737 tấn, so cùng kỳ giảm 6,16% hay giảm 311 tấn do diện tích gieo trồng giảm.

- Lúa vụ Đông Xuân 2024: Diện tích gieo trồng lúa Đông Xuân 2024 đạt 61.739 ha; so cùng kỳ giảm 0,52% hay giảm 320 ha. Diện tích xuống giống lúa Đông Xuân giảm so với cùng kỳ do một số diện tích đất gò cao, thiếu nước canh tác, những vùng có nguy cơ nước mặn xâm nhập cao nên nông dân đã chuyển đổi sang trồng cây màu. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh đã thu hoạch dứt điểm lúa đông xuân 2024 đạt 61.719 ha; so với diện tích xuống giống chỉ đạt 99,97% do 20 ha lúa tại xã Hòa Lợi thuộc huyện Châu Thành xuống giống ngoài vùng quy hoạch không chủ động được nước tưới tiêu nên mất trắng. Năng suất gieo trồng đạt 66,99 tạ/ha so cùng kỳ tăng 9,78% hay tăng 5,97 tạ/ha, so với kế hoạch đạt 102,27% (kế hoạch 65,50 tạ/ha); năng suất lúa Đông Xuân 2024 tăng so cùng kỳ do thời tiết thuận lợi, giá lúa tăng cao nhiều hộ nông dân tích cực chăm sóc, bón phân cân đối đúng giai đoạn phát triển của cây lúa nên năng suất tăng so cùng kỳ. Sản lượng lúa vụ Đông Xuân năm 2024 đạt 413.588 tấn, so với cùng kỳ tăng 9,21% hay tăng 34.880 tấn; so với kế hoạch đạt 111,76% (kế hoạch 370.075 tấn).

- Lúa Hè Thu năm 2024: Trong tháng 6/2024 nông dân trong tỉnh tiếp tục gieo trồng lúa Hè Thu năm 2024 với diện tích ước đạt 59.670 ha. Nâng tổng số từ đầu vụ đến nay ước đạt 67.889 ha, so cùng kỳ giảm 293 ha. Diện tích xuống giống lúa Hè Thu giảm so cùng kỳ do thời tiết nắng nóng kéo dài thiếu nước tưới tiêu nên tiến độ xuống giống chậm.

- Diện tích gieo trồng một số cây màu chủ yếu tính từ đầu năm 2024 đến nay như: bắp 2.661 ha, tăng 5,21% hay tăng 132 ha so với cùng kỳ năm trước; khoai lang 888 ha, tăng 9,82% hay tăng 79 ha; khoai mì (sắn) 277 ha, giảm 4,81% hay giảm 14 ha; đậu phộng (lạc) 3.806 ha, giảm 0,36% hay giảm 14 ha; lác (cói) 1.512 ha, giảm 0,83% hay giảm 13 ha; rau đậu các loại 19.324 ha, tăng 4,09% hay tăng 760 ha; mía ước gieo trồng được 1.334 ha, tăng 0,37% hay tăng 5 ha;…

Trong 6 tháng đầu năm 2024 nông dân trong tỉnh trồng mới 206 ha cây ăn quả, so cùng kỳ giảm 49,66% hay giảm 226 ha; sản lượng thu hoạch ước đạt 176.381 tấn, so cùng kỳ tăng 10,02% hay tăng 16.069 tấn.

Trong 6 tháng đầu năm 2024 tình hình chăn nuôi của tỉnh có sự chuyển đổi từ nuôi nhỏ lẻ sang nuôi tập trung, quy mô từ vừa đến lớn. Tổng đàn heo tăng so cùng kỳ, tập trung ở các hộ có năng lực chủ động con giống, có điều kiện trang bị các thiết bị vật tư và kỹ thuật đáp ứng điều kiện nuôi an toàn sinh học, nuôi quy mô lớn. Đàn bò phát triển chậm, do giá bò hơi thấp, hiệu quả chăn nuôi không cao. Đàn gia cầm giảm do giá thức ăn ở mức cao, giá gia cầm hơi không tăng, hiệu quả chăn nuôi thấp, các cơ sở chăn nuôi giảm quy mô đàn. Kết quả ước số con gia súc, gia cầm hiện có trên địa bàn tỉnh như sau: Đàn trâu hiện có 238 con, so cùng kỳ giảm 5,93% hay giảm 15 con; đàn bò hiện có 235.860 con, so cùng kỳ giảm 7,02% hay giảm 17.803 con; đàn heo hiện có 276.320 con, so cùng kỳ tăng 6,51% hay tăng 16.898 con; đàn gia cầm hiện có 6.398,80 ngàn con, so với cùng kỳ giảm 0,98% hay giảm 63,34 ngàn con (trong đó: đàn gà 4.872,90 ngàn con, giảm 2,31% hay giảm 115,20 ngàn con so cùng kỳ).

Sản xuất lâm nghiệp trong 6 tháng đầu 2024 tập trung vào chăm sóc, khoanh nuôi, bảo vệ rừng đã trồng trong năm trước và không phát sinh diện tích rừng trồng mới. Sản lượng khai thác gỗ ước đạt 37.042 m3, so cùng kỳ giảm 4,21% hay giảm 1.628 m3; củi ước đạt 128.090 ste, so cùng kỳ giảm 1,99% hay giảm 2.600 ste.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 93.495 tấn, so cùng kỳ giảm 3,26% hay giảm 3.149 tấn, trong đó sản lượng cá ước đạt 48.097 tấn, giảm 6,39% hay giảm 3.283 tấn; tôm ước đạt 36.892 tấn, tăng 5,43% hay tăng 1.902 tấn.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 71.811 tấn, so cùng kỳ giảm 3,85% hay giảm 2.877 tấn, trong đó sản lượng cá ước đạt 34.207 tấn, giảm 12,23% hay giảm 4.768 tấn; tôm ước đạt 34.809 tấn, tăng 6,30% hay tăng 2.064 tấn. Sản lượng nuôi trồng giảm chủ yếu ở loại hình nuôi cá lóc và cá các loại; sản lượng cá lóc giảm (giảm 3.078 tấn so cùng kỳ) do những tháng đầu năm giá cá lóc xuống thấp, chi phí thả nuôi tăng cao, nuôi không hiệu quả, người nuôi sợ thua lỗ nên nhiều hộ hạn chế thả nuôi; Sản lượng cá các loại giảm (giảm 1.622 tấn so cùng kỳ) do những tháng đầu năm nắng nóng kéo dài nguồn nước các kênh thấp, tiến độ thả nuôi chậm nên đến nay cá chưa đạt kích cỡ thu hoạch.

Sản lượng khai tác thủy sản ước đạt 21.684 tấn, so cùng kỳ giảm 1,24% hay giảm 272 tấn, trong đó sản lượng khai thác biển đạt 19.696 tấn, giảm 1,29% hay giảm 258 tấn so với cùng kỳ năm trước. Theo kết quả điều tra thủy sản 01/12/2023 trên địa bàn toàn tỉnh có 782 tàu thuyền khai thác có động cơ, so với cùng kỳ giảm 8,43% hay giảm 72 chiếc.

3. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Trà Vinh 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều thuận lợi. Công nghiệp chế biến chế tạo duy trì tăng trưởng ổn định, đặc biệt ngành chủ lực sản xuất điện tăng trưởng mạnh thúc đẩy chỉ số toàn ngành công nghiệp của tỉnh tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng mạnh do cùng kỳ năm trước ngành sản xuất nhiệt điện chỉ có Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 1 được vận hành, các Nhà máy còn lại không được huy động (tạm ngừng huy động theo Lệnh điều độ từ tháng 6/2022 đến tháng 4/2023 mới được huy động trở lại) và trong 6 tháng cùng kỳ năm trước Nhà máy điện gió Hiệp Thạnh chỉ vận hành 3 tuabin, hiện nay là 18 tuabin (tăng 15 tuabin).

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 58,87% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 101,76%, quý II tăng 37,25%). Trong đó, ngành khai khoáng tăng 3,18% so cùng kỳ, vụ sản xuất muối năm nay có thuận lợi là nắng nóng kéo dài, sản lượng thu hoạch được nhiều (tăng khoảng 30%). Ngành chế biến, chế tạo tăng 3,04%, tăng ở một số ngành như: sản xuất trang phục tăng 15,84%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 4,78%; sản xuất bộ nguồn dây dẫn điện ô tô tăng 4,42%;… Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 79,1%, sản lượng nhiệt điện sản xuất 6 tháng đầu năm ước đạt 12.466 triệu kWh, tăng 5.690 triệu kWh (tăng 83,96%) so với cùng kỳ năm 2023. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,64%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm 2023 như: gạo xay xát tăng 21,78%; đường RS tăng 6,56%; túi xách tăng 1,72%; các bộ phận của giày, dép bằng da tăng 6,08%; điện sản xuất tăng 78,79%, trong đó Nhiệt điện tăng 83,96%; nước máy thương phẩm tăng 12,69%;… Tuy nhiên, có một sản phẩm giảm so với cùng kỳ như: tôm đông lạnh giảm 29,49%; xơ dừa giảm 37,8%; giầy thành phẩm giảm 1,11%; cacbon hoạt tính giảm 20,08%; dược phẩm chứa hoocmôn nhưng không chứa kháng sinh dạng viên giảm 10,07%; bê tông tươi giảm 8,67%;…

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Sáu tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh có 232 doanh nghiệp và 137 đơn vị trực thuộc đăng ký mới với tổng vốn đăng ký là 1.462,5 tỷ đồng và 974 lao động. Bên cạnh đó, có 386 doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc bổ sung ngành nghề kinh doanh, bổ sung vốn và các thay đổi khác, vốn bổ sung 1.219 tỷ đồng; hoạt động trở lại 40 doanh nghiệp. Tuy nhiên, đã có 87 doanh nghiệp, 171 đơn vị trực thuộc hoàn tất thủ tục giải thể; 126 doanh nghiệp và 64 đơn vị trực thuộc tạm ngừng hoạt động. So với cùng kỳ năm trước, số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm 34 doanh nghiệp; số doanh nghiệp giải thể tăng 27 doanh nghiệp; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 28 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoạt động trở lại giảm 5 doanh nghiệp. Tình hình đăng ký qua mạng tiếp tục được các doanh nghiệp lựa chọn, đạt tỷ lệ 92% hồ giảm 8% so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2023. Tỷ trọng vốn bình quân doanh nghiệp là 6,3 tỷ đồng/doanh nghiệp giảm 3 tỷ đồng so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2023.

5. Hoạt động thương mại và dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 30.751 tỷ đồng, tăng 13,19% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể ở các ngành như:

Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 21.989 tỷ đồng, tăng 20,67% so cùng kỳ năm trước, tăng ở một số nhóm hàng sau: nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng 24,11% do giá lúa, gạo tăng mạnh; nhóm hàng may mặc tăng 4,58%; xăng dầu các loại tăng 47,69%; nhóm hàng đá quý, kim loại quý tăng 23,87% do giá vàng tăng mạnh; hàng hóa khác tăng 10,27%;…

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 4.594 tỷ đồng, giảm 8,17% do hiện nay tỉnh đang tăng cường kiểm tra nồng độ cồn của người tham giao thông nên người dân đã hạn chế tổ chức ăn uống ngoài gia đình.

Doanh thu du lịch lữ hành đạt 23 tỷ đồng, giảm 6,14% do nhu cầu đi du lịch theo tour tại các công ty lữ hành giảm, người dân trong tỉnh chủ yếu du lịch theo hình thức tự phát và đăng ký tour của các công ty lữ hành của tỉnh khác.

Doanh thu dịch vụ khác đạt 4.145 tỷ đồng, tăng 5,79% so cùng kỳ. Một số ngành tăng mạnh như: kinh doanh bất động sản tăng 12,42%; dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 4,22%; ngành hoạt động thể thao, vui chơi và giải trí tăng 10,96%; ngành hoạt động xổ số tăng 4,61%; ngành dịch vụ khác tăng 16,51%;…    

6. Hoạt động ngân hàng

Tổng nguồn vốn hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn ước đến tháng 6/2024 đạt 48.750 tỷ đồng, tăng 3,99% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 33.150 tỷ đồng, chiếm 68%/tổng nguồn vốn, tăng 5,73% so với cùng kỳ năm 2023.

Tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trên địa bàn ước đến tháng 6/2024 đạt 46.000 tỷ đồng, tăng 10,46% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: dư nợ ngắn hạn chiếm khoảng 62%/tổng dư nợ.

7. Đầu tư

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 13.668 tỷ đồng, đạt 40,20% kế hoạch năm 2024 (kế hoạch 34.000 tỷ đồng) và tăng 4,84% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư của khu vực Nhà nước ước thực hiện 3.374 tỷ đồng, chiếm 24,69% tổng vốn đầu tư phát triển và giảm 15,66% so cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước ước thực hiện 9.417 tỷ đồng, chiếm 68,89% và tăng 13,89%; vốn đầu tư của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước thực hiện 877 tỷ đồng, chiếm 6,42% và tăng 14,11%.

8. Thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 11.219 tỷ đồng, đạt 82,12% dự toán năm 2024, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nội địa đạt 3.300 tỷ đồng, đạt 53,05% dự toán năm 2024, giảm 5,69% so với cùng kỳ năm trước; thu ngân sách trung ương bổ sung đạt 3.139 tỷ đồng, đạt 57,97% dự toán, tăng 7,09%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 892 tỷ đồng, đạt 69,19% dự toán, tăng 76,31%; thu chuyển nguồn đạt 3.884 tỷ đồng, tăng 39,56%.

Tổng chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2024 ước thực hiện 5.276 tỷ đồng, bằng 42,24% dự toán năm 2024, tăng 40,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 2.194 tỷ đồng, đạt 45,37% toán năm 2024, tăng 99,37% cùng kỳ năm trước; chi thường xuyên ước đạt 3.077 tỷ đồng, đạt 43,05% dự toán, tăng 21,84%.

9. Chỉ số giá

Tháng 6/2024 nhu cầu du lịch hè tăng cùng với giá một số loại thịt gia súc tăng là nguyên nhân chính dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2024 tăng 0,43% so với tháng trước. So với tháng 12/2023 tăng 1,39% và so với tháng 6/2023 tăng 3,67%. Bình quân 6 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,23% so với cùng kỳ năm trước

Chỉ số giá vàng tháng 6/2024 giảm 0,11%% so với tháng trước, giá vàng hạ nhiệt do Ngân hàng Nhà nước triển khai bán vàng bình ổn giá kể từ ngày 03/6/2024. Tuy nhiên so với tháng 12/2023 giá vàng tăng 21,05% và so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 32,18%. Chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 24,68%.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 6/2024 không tăng giảm so với tháng trước, tăng 4,31% so với tháng 12/2023 và tăng 7,7% so với tháng 6/2023. Chỉ số giá đô la Mỹ bình quân 6 tháng năm 2024 tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước.

10. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống người dân và tình hình sản xuất kinh doanh của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục ổn định và phát triển. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên; ý thức của người dân về bảo vệ, cải thiện môi trường tiếp tục được nâng cao. Công tác chăm lo, chuẩn bị Tết Nguyên đán và Tết Chôl-Chnam-Thmây cho Nhân dân, gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng khó khăn được quan tâm; đảm bảo hàng hóa phục vụ Tết, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu mua sắm của người dân; cung cấp điện được đảm bảo; công tác vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong dịp nghỉ Tết; công tác thông tin liên lạc thông suốt; tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, vui chơi trong dịp Tết diễn ra an toàn, vui tươi, phấn khởi; các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện nghiêm túc công tác trực, cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh cho Nhân dân, đảm bảo đủ thuốc, vật tư y tế phục vụ cấp cứu, khám chữa bệnh cho Nhân dân; tình hình sản xuất nông nghiệp bình thường, dịch bệnh được kiểm soát; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2024 đời sống của người dân cũng gặp khó khăn do giá cả các mặt hàng thiết yếu phục vụ sinh hoạt đời sống và sản xuất tăng cao, dịch heo Châu Phi vẫn phát sinh ở một số địa phương, giá một số loại nông sản bị sụt giảm ở một số thời điểm,...

11. Giáo dục và đào tạo

Duy trì phối hợp với Đài Phát Thanh truyền hình Trà Vinh thu hình phát sóng chương trình dạy học cấp tiểu học (môn Tiếng Việt và Toán) năm học 2023-2024, tổng số 562 tiết phát sóng chương trình dạy học trên kênh THTV2.

Tổ chức các kỳ thi, hội thi cấp tỉnh như: Tổ chức Hội đồng thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm 2024 theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tổ chức Hội khỏe phù đổng tỉnh Trà Vinh lần thứ XIV năm 2024 và tổ chức các kỳ thi, cuộc thi, hội thi cấp Tiểu học và cấp trung học.

12. Tình hình dịch bệnh và ngộ độc thực phẩm

- Bệnh Sốt xuất huyết Dengue: Tính từ đầu năm 2024 đến ngày 31/5/2024, phát hiện và xử lý 55 ổ dịch và 135 ca mắc, giảm 35 ổ dịch (38,9%) và giảm 150 ca mắc (52,6%) so với cùng kỳ năm 2023 (90 ổ, 285 ca mắc); không có tử vong.

- Bệnh Tay chân miệng: không phát hiện ổ dịch và phát hiện 167 ca mắc; bằng ổ dịch và tăng 93 ca mắc (125,7%) so với cùng kỳ năm 2023 (0 ổ dịch, 74 ca mắc); không có tử vong.

- Bệnh COVID-19: không phát hiện trường hợp mắc; giảm 202 ca (100%) và tử vong giảm 08 ca (100%) so với cùng kỳ năm 2023 (mắc 202 ca, tử vong 08 ca).

- Bệnh Sốt rét: phát hiện 1 ca mắc, tăng 1 ca (100%) so với cùng kỳ năm 2023; không có tử vong.

- Bệnh Quai bị: phát hiện và xử lý 1 ca, giảm 2 ca (66,6%) so với cùng kỳ năm 2023 (3 ca), không có tử vong.

- Bệnh Đậu mùa khỉ: phát hiện 1 ca mắc, 1 ca tử vong; số ca mắc tăng 1 ca (100%) và số ca tử vong tăng 1 ca (100%) so với cùng kỳ năm 2023 (không phát hiện, không tử vong).

- Bệnh Liên cầu lợn ở người: phát hiện và xử lý 1 ca, bằng so với cùng kỳ năm 2023 (1 ca), không có tử vong.

- Bệnh Sốt phát ban nghi Sởi: phát hiện và xử lý 1 ca, không có tử vong; tăng 1 ca mắc và tử vong bằng so với cùng kỳ năm 2023 (không phát hiện).

13. Hoạt động văn hóa, thể thao

Tổ chức thành công Lễ hội đón giao thừa mừng Xuân Giáp Thìn 2024 tại Trung tâm Hội nghị tỉnh với chương trình nghệ thuật và màn bắn pháo hoa đặc sắc phục vụ trên 10 nghìn lượt người xem.

Được Thủ tướng Chính phủ công nhận 01 Bảo vật Quốc gia “Sưu tập Vàng lá Châu Thành, Trà Vinh”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia 02 Lễ hội truyền thống (Vu lan Thắng hội Cầu Kè và Đom Lơng Néak Tà của người Khmer Trà Vinh).

Cử các đội tuyển tham gia thi đấu: 06 giải quốc gia đạt 11 Huy chương các loại (02 HCV, 03 HCB, 06 HCĐ); 02 giải khu vực đạt 26 Huy chương các loại (06 HCV, 05 HCB, 15 HCĐ); 02 giải tỉnh mở rộng đạt 02 HCB. Tổ chức thành công 08 giải vô địch tỉnh và 05 giải thể thao phong trào.

14. Tai nạn giao thông

Sáu tháng đầu năm 2024 xảy ra 116 vụ tai nạn giao thông (115 vụ đường bộ và 1 vụ đường thủy), làm 37 người chết (trong đó có 1 vụ đường thủy, làm chết 1 người), 111 người bị thương; so với cùng kỳ năm trước tăng 62 vụ tai nạn, giảm 13 người chết, tăng 84 người bị thương

15. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh xảy ra 5 vụ cháy, làm chết 1 người, thiệt hại tài sản khoảng 2,2 tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2023 tăng 3 vụ, tăng 1 người chết và thiệt hại tài sản tăng 2,09 tỷ đồng./.